Các yêu cầu về đặc tính chất lượng của chi tiết mài chỉ có thể đạt được, khi đĩa mài và điều kiện cắt của máy mài được điều chỉnh cẩn thận trên chi tiết mài (Hình 1).
1.Thông số cắt gọt (Biến cắt gọt, độ lớn gia công)
Mỗi phương pháp mài được phân biệt qua chuyển động tiêu biểu và thông số cắt gọt (thông số điều chỉnh máy) (Hình 2 và Bảng 1). Tốc độ làm việc của đĩa mài vc tương ứng với tố độ chu vi. Ngoài tốc độ làm việc cao nhất trên nhãn cũng có ghi số vòng quay cho phép.
Quy tắc an toàn
Trong mọi trường hợp tốc độ làm việc không được phép vượt quá tốc độ làm việc cao nhất ghi ở nhãn đĩa mài. Đĩa mài và máy cho tốc độ làm việc gia tăng phải tuân thủ các quy định quốc gia về an toàn. Thông thường tốc độ làm việc cao nhất khi mài lên tới 35m/giây trên những máy mài cố định. Tốc độ làm việc có thể tăng đến 160m/phút. Những đĩa mài này được đánh dấu bằng màu (Bảng 2).
Tốc độ bước dẫn tiến vf (tốc độ phoi) tương ứng với tốc độ bước dẫn tiến bàn mài ở mài phẳng, ở mài tròn là tốc độ chu vi của chi tiết. Bước dẫn tiến ngang f bằng mm cho mỗi hành trình cũng như bước dẫn tiến dài f bằng mm cho mỗi vòng quay ở mài tròn của chi tiết tùy thuộc theo bề ngang bs của đĩa mài. Lượng ăn dao a (ae) là chiều sâu cắt thẳng góc với chiều dẫn tiến chính. Mài hoàn chỉnh không có lượng ăn dao gọi là “nẹt lửa “ hay ”có lửa “. Người ta chọn lượng ăn dao lớn khi mài phá (mài thô), chọn lượng ăn dao nhỏ để mài tinh
Tỷ số tốc độ q là thước đo độ dày của phoi và do đó cũng là thước đo cho
tải ở hạt.
Phoi mỏng phát sinh ở tỷ lệ vận tốc cao và cũng ở bề dài tiếp xúc lớn, thí dụ như ở mài sâu, mài cạnh và mài lỗ trong (Hình 1).
Tỷ số tốc độ q được chọn tương ứng với phương pháp mài và vật liệu mài (Bảng 1 trang 175 và bảng 1).
Sự tăng tốc độ dẫn tiến ở vận tốc làm việc không thay đổi làm tăng thêm sự mài mòn đĩa mài và độ nhấp nhô cũng như giảm nhiệt độ ở vùng biên.
2.Nhiệt độ mài và làm nguội bôi trơn
Lúc mài phát sinh nhiều nhiệt qua sự cọ sát của hạt mài lúc cấu thành phoi. Ở vùng biên của phoi nhiệt có thể lên đến trên 10000C. Nhiệt lúc mài là nguyên nhân làm tổn hại như kích thước sai lệch, ứng suất và hình thành vết nứt bởi nhiệt độ thay đổi ở vùng mài (Hình 2).
Đốm cháy là một dấu hiệu, tinh thể vật liệu ở vùng biên chi tiết bị tổn hại bởi sự quá nhiệt. Hậu quả của nhiệt độ mài cao cũng có thể là một lớp da mềm và sau đó hình thành một lớp cứng mới ở bề mặt nhờ tác dụng của dung dịch làm nguội
Nhiệt độ thấp ở vùng biên đạt được qua:
• Bước tiến ngang nhỏ và bề dài tiếp xúc nhỏ.
• Tỷ số tốc độ q nhỏ.
• Bánh mài với độ bám cao, lực giữ hạt thấp và hạt giòn.
• Bôi trơn làm nguội mãnh liệt.
Ở vận tốc đĩa mài cao phải dùng dung dịch cắt (dung dịch bôi trơn làm nguội) dưới áp suất cao. Tốc độ bước dẫn tiến càng thấp và càng phát sinh nhiều nhiệt hình thành thì lưu lượng dòng chảy (tốc độ dòng chảy) của dung dịch cắt càng lớn hơn. Qua bôi trơn làm nguội ta giảm thiểu nhiệt ma sát, làm sạch buồng chứa phoi và làm nguội chi tiết. Dung dịch mài (chất bôi trơn làm nguội) hiệu quả nhất là dầu mài, nó làm giảm mạnh nhiệt ma sát hơn dầu mài hòa tan emulsi. Dùng dầu mài emulsi khiến cho vùng biên nóng hơn và sau đó làm nguội đột
ngột, do đó thường xuyên xảy ra vết nứt mài.